
30 May 2025
Video Dạ Tiệc của Hội Cảnh Sát Quốc Gia NSW tại Canley Height ngày 30/05/2025
Dạ Tiệc của Hội Cảnh Sát Quốc Gia NSW tại Canley Height ngày 30/05/2025
Gần 600 quan khách đã đến dự buổi dạ tiệc nhân ngày truyền thống của Hội Cảnh sát Quốc gia VNCH tại NSW Úc Châu được tổ chức vào lúc 7 giờ tối ngày thứ Sáu, 30.5.2025, tại nhà hàng Crytas Palace Canley Heights, Sydney NSW.
27 May 2025
Video 🙏🙏 Kính Chào Lần Cuối Cố Đại Tá Võ Đại Tôn ❣️❣️😢🥲
Ví Phỏng Đường Đời Bằng Phẳng Cả
💚🌹Tôi biết tên Ông từ những ngày còn ở đảo Paulo Bidong năm 1981. Số là sau khi bị phái đoàn Mỹ "xù",có một ông Anh khuyên tôi nên nộp đơn xin tỵ nạn tại Úc. Tình anh em lính tráng với nhau, nên ổng nói, không nên phí thời gian nằm chờ Mỹ "hốt rác ".
Mình dân tỵ nạn, nơi đâu có tự do nơi ấy là nhà,và trong câu chuyện ổng có đề cập đến tên Cố Đại Tá Võ Đại Tôn. Ở đảo thời đó vẫn có báo chí người Việt Tỵ Nạn bên Hoa Kỳ gởi qua. Hình như là Tiền Phong và Trắng Đen.
💚🌹Tháng Sáu cùng năm, tôi đặt chân đến Úc. Lần này tôi lại gặp một người Anh nữa, nhưng ông Anh này thì thân thiết hơn vì ông ấy gốc gác là AET. Cố Thiếu tá AET Đỗ Văn Tô. Ông Anh này là người Anh kiêm luôn chức vị "Thầy",trên mọi mặt đối với tôi.
Người Việt Tỵ Nạn Cộng Sản hồi đó hừng hực khí thế đấu tranh chính trị, một mất một còn với cộng sản. Lực Lượng Dân Quân Yểm Trợ Phục Quốc ra đời từ năm 1977.
Do Đại Tá Võ Đại Tôn lãnh đạo. Tổ chức này có sự liên kết với các cộng đồng người việt tỵ nạn ở Mỹ và Âu Châu. Nếu tôi nhớ không lầm là như vậy.
Đa số cựu quân nhân Việt Nam Cộng Hòa ở Úc là thành viên của Lực lượng này.
Có một điều rất buồn, là sự rạn nứt, điều qua tiếng lại lại bắt đầu từ Hoa Kỳ.
Năm 1981-1982, Mặt Trận Quốc Gia Thống Nhất Giải Phóng Việt Nam, bắt đầu hoạt động ở Úc. Và chính sự ủng hộ của đại đa số người Việt Tỵ nạn trên thế giới kể cả Úc, khí thế của Mặt Trận lên như trào dâng nước lũ, đã làm mờ nhạt đi khí thế của Lực lượng Dân Quân Yểm Trợ Phục Quốc của Đại Tá Võ Đại Tôn.
Nhưng chuyện ai người đó làm. Không có phỉ báng hay chửi nhau như kẻ thù. Mục tiêu của Họ là quân cộng sản.
💚🌹Kinh Kha Sang Sông
Năm 1981,Đại Tá Võ Đại Tôn lên đường về nước. Bỏ lại đời sống sung túc, vợ đẹp con thơ.
Hai vợ chồng Đại Tá mới lấy nhau từ năm 1972.
Năm 1978 có một đứa con trai đầu lòng và duy nhất thì ông để lại quê người, lên đường về nước. Nhắc lại đau lòng. Hồi đó có những người nói rằng Ông ở thế bí nên phải lên đường.
Ông đến Thái Lan, ở đây ông có thêm 2 chiến hữu. Mục đích của chuyến về đầy gian nguy này là để kết hợp với những lực lượng đối kháng với việt cộng ở trong nước. Có câu chuyện hơi huyền bí tí mà trong hồi ký Tắm Máu Đen ông viết lại sau khi ra tù:
Có lần ông đi thăm một ngôi chùa ở Thái Lan, trong khi tín hữu đông đúc thì ông được vị Sư trù trì gọi riêng lên gặp ổng. Vị Sư già này rất được tín hữu người Thái kính trọng.
Ông Võ Đại Tôn được vị Sư già này cho một cái vòng dây và qua thông dịch của vị Đại Tá người Thái, bạn của Ông Tôn nói lại:
Ông Võ Đại Tôn hãy cẩn thận. Nhưng dù có gì đi nữa rồi cuối cùng sẽ thoát nạn.
Và chuyện này đã xảy ra. Ông Võ Đại Tôn, vì quá tin tưởng vào Tướng Vàng Pao. Lãnh đạo của lực lượng chống cộng Lào.
Và một trong những người dẫn đường của Tướng Vàng Pao đã bán đứng Ông Võ Đại Tôn cho việt cộng.
Núi rừng nước Lào đã chứng kiến một trong hai người chiến hữu của Đại Tá, hy sinh ở nước người, khi mục đích chưa đạt được. Đại Tá Võ Đại Tôn và người còn lại bị bắt. Từ núi rừng nước Lào chúng đưa hai "Thầy trò " về Hà Nội.
Thời gian cứ lạnh lùng trôi. Mọi người hình như đã yên trí Đại Tá Võ Đại Tôn sẽ chết gục trong ngục tù cộng sản. Nhưng có một người không bao giờ bỏ cuộc, không bao giờ quên. Đó là Bà Đại Tá.
Mặc dù còn trẻ, lại xinh đẹp. Hai vợ chồng hương lửa chẳng bao lâu. Nhưng Bà Đại Tá là điển hình của những người phụ nữ Việt Nam đúng nghĩa. Một phần là thù Cha, " Cha bà Đại Tá đã bị việt cộng giết trong tù" phần còn lại là nợ chồng.
Cho dẫu ngàn năm em vẫn đứng
Chờ Anh như biển đứng chờ sông.
Bà Đại Tá không đứng yên để đợi, mà bà Đại Tá xông đến khắp nơi trên chính trường nước Úc để vận động cứu chồng thoát khỏi lao tù cộng sản. Cái gì cũng có sự sắp đặt của Ông Trời. Tôi tin như vậy.
Nếu không có phóng viên người Nhật thu được đoạn phim mà bọn việt cộng dàn dựng khi đưa Đại Tá Võ Đại Tôn ra tòa "thú nhận tội lỗi " thì tha nhân chắc không có bao nhiêu người còn nhớ đến Đại Tá Võ Đại Tôn.
Trong cuộc họp báo này, dũng khí của Đại Tá đã làm bùng lên lại khí thế đấu tranh và giúp thêm cơ hội cho bà Đại Tá làm hành trang trong việc cứu chồng.
Đại ý Đại Tá nói hôm đó: Tôi Võ Đại Tôn, không bao giờ phản bội lại lý tưởng của tôi, không bao giờ phản bội lại những người đã giúp tôi trong việc làm thực hiện lý tưởng. Tôi hành động một mình với vài chiến hữu. Tôi sẵn sàng nhận mọi hình phạt của nhà cầm quyền cộng sản áp đặt lên tôi.
Bọn việt cộng vội vàng tắt máy và giải tán cuộc họp báo. Và kết quả là những trận đòn thù tới tấp giáng lên người Đại Tá.:-(
💚🌹 Khi Người Hùng Lại Là Người Nghệ Sĩ
Trước năm 1975, ít người biết Trung Tá Võ Đại Tôn là Giám Đốc của Trung Tâm Chiêu Hồi.
Và trước đó cũng ít người biết ông đã từng phục vụ trong Lực Lượng Đặc Biệt.
Văn và Võ có đủ. Cũng có ít người biết bài thơ Mẹ Việt Nam Ơi Chúng Con Vẫn Còn Đây được cố nhạc sĩ Nguyễn Ánh 9 phổ nhạc là của Đại Tá Võ Đại Tôn. Bút hiệu Hoàng Phong Linh là bút hiệu của ông. Và ông còn là một Họa sĩ.
Người xưa có nói: Này Trong Văn Phải Có Võ
Văn không võ Văn thành bạc nhược
Võ không văn Võ hóa bạo tàn.
Nhưng người xưa cũng có nói:
Nhất Phiến Tài Tình Thiên Cố Lụy 😢
Cá nhân tôi chỉ cảm khái với câu nói trong Tác phẩm Tuổi Thơ & Chiến Tranh của Ông Hoàng Phong Linh:
💚 Chúng tôi những người con đi xa, gánh trên vai đôi gánh nặng. Đất nước, quê hương, tình thương và nỗi nhớ.
Nhiều khi tôi thèm làm một con chim nhỏ, bay về đậu trên mồ Mẹ, đọc cho mẹ nghe những bài thơ được đan kết từ mấy mươi năm trầm luân thống khổ.
Nhưng không, đôi cánh chúng tôi quá nhỏ và quảng trời thì quá rộng, quá xa,ước mơ cũng chỉ là ước mơ.
Chúng tôi chọn lựa một cách sống mà chúng tôi nghĩ rằng là đúng nhất cho đời mình và đất nước, nhưng chọn lựa nào mà chẳng có hy sinh. Chúng tôi đã phải hy sinh những gì riêng tư thân thiết nhất.
🌹❤ Tình riêng nhưng sao vẫn có dính đến tình chung đến thế, và cũng nói lên hộ cho nhiều nỗi lòng của rất nhiều người bao thế hệ.
Vĩnh biệt Đại Tá. Bây giờ thì ước mơ của Đại Tá đã thành dù thành trong ly biệt:-( 😢
Đại Tá có thể bay về bên mộ Bà Cụ hay bên dòng thác Champy ở nước Lào để hót lên điệu não nùng của loài chim Quốc.
Kính Chào Lần Cuối Cố Đại Tá Võ Đại Tôn.
Kính xin linh hồn cố Đại Tá yên nghỉ.
Ví phỏng đường đời bằng phẳng cả
Anh Hùng Hào Kiệt có hơn ai
Đối với cá nhân chúng tôi. Cố Đại Tá là một Hào Kiệt Của Đất Phương Nam!
🌹❤ Kính xin linh hồn cố Đại Tá yên nghỉ.
* ↓* Copy from Chiến Sĩ Võ Đại Tôn ↓
* ↓* Coi thêm chi tiết Chiến Sĩ Võ Đại Tôn ↓
* CHUYỆN KỂ VỀ VƯỢT BIÊN NHIỀU ĐAU KHỔ ĐỂ TÌM TỰ DO TẠI VIETNAMESE MUSEUM:-(👇
18 May 2025
Video tin tức cập nhật ngay 26/05/2025 - NHỮNG NGÀY THÁNG KHÓ QUÊN SAU 1975…
* ↓ Xin quý Vị hãy Ký Thỉnh Nguyện Thư ↓
NHỮNG NGÀY THÁNG KHÓ QUÊN SAU 1975…
Đó là những ngày tháng rất khó khăn sau 1975, mà ngày nay ít ai trong giới trẻ biết dù họ thỉnh thoảng nghe đến cái gọi là 'Thời Bao Cấp'. Càng ít người nghe qua về chế độ tem phiếu, đốt sách, Đánh tư sản, Kinh tế mới, tù cải tạo, thảm nạn Thuyền Nhân, v.v…
Tem phiếu
Một phần trong nền kinh tế mới sau 1975 là ‘chế độ tem phiếu’. Mặc dù nó đã có từ 1957 ở miền Bắc, nhưng dân trong Nam chẳng biết gì! Theo chánh sách tem phiếu này, tất cả nguồn lương thực, thực phẩm và nhu thiết yếu cuộc sống được phân phối qua tem phiếu được cấp cho mỗi gia đình.
Nhà nước có những tiêu chuẩn cụ thể cho mỗi giai tầng trong xã hội. Một người dân được tiêu chuẩn 150 gram thịt mỗi tháng (tương đương với mức tiêu thụ thịt trung bình trong 1 ngày hiện nay của người trưởng thành), nhưng các cán bộ nhà nước thì được hưởng 300 gram đến 500 gram mỗi tháng, tuỳ theo cấp bậc. Gạo cũng được phân phối theo chế độ tem phiếu, và tiêu chuẩn theo giai cấp rất rõ rệt.
Những tiêu chuẩn như thế không thể nào đủ sống. Hậu quả là người dân bị đói. Nên nhớ rằng miền Nam, đặc biệt là miền Tây, là vựa lúa của cả nước và người dân ở đây chưa bao giờ thiếu gạo ăn. Ấy vậy mà sau 1975 người dân bị đói vì thiếu gạo! Người ở thành thị đói hơn người ở nông thôn.
Danh từ 'ăn độn' có nghĩa là người ta phải trộn gạo với các nguyên liệu khác như khoai mì, đôi khi lên đến 60-70% để có một bữa ăn. Kiên Giang là tỉnh nông nghiệp, vậy mà ở Rạch Giá gạo được xem là hàng quí hiếm đến mức người ta phải cất giữ nó như sâm quí, chỉ dùng để nấu cháo khi đau ốm.
Đổi tiền
Ngày 22/9/1975, chánh quyền mới ra lệnh đổi tiền, 500 đồng tiền VNCH đổi lấy 1 đồng tiền Ngân hàng Việt Nam tức loại tiền mới. Mỗi gia đình (hộ khẩu) được đổi tối đa 200 đồng mới. Tiền cũ còn dư phải gởi vào ngân hàng, rút ra và đổi từ từ.
Người dân xem là một biện pháp làm nghèo dân chúng. Sau 1975 ai cũng nghèo. Lúc đó, xuất hiện câu ca dao: “Năm đồng đổi lấy một xu,/ Người khôn đi học [tập], thằng ngu làm thầy.”
Đốt sách
Sau 1975, rất nhiều sách báo xuất bản trước 1975 ở miền Nam bị thiêu huỷ. Nhà nước huy động thanh niên, thậm chí là trẻ em mang băng đỏ vào nhà của người dân để lục soát, tịch thu các thể loại sách vở, báo chí, băng đĩa. Một chủ tiệm cho thuê sách cạnh nhà thờ Ba Chuông (Quận 3, TPHCM) đã cho nổ một quả lựu đạn khi các em nhỏ đeo băng đỏ xông vào nhà để tịch thu sách.
Không ai biết con số chính xác là bao nhiêu, nhưng có vài con số đã được báo cáo. Nhưng năm 1977, một cán bộ tại TPHCM nói với báo chí quốc tế rằng có khoảng 700 tấn sách của miền Nam đã bị tịch thu và nghiền nát sau hai năm giải phóng. Ở Huế, một cán bộ cho biết hàng chục ngàn cuốn sách và tranh ảnh 'lạc hậu' về 'tình yêu ủy mị' và 'tìm kiếm niềm vui thể xác' đã bị đốt bỏ.
Linh mục André Gelinas cho biết một số lượng lớn trong khoảng 80,000 cuốn sách của thư viện Trung tâm Giáo dục Alexandre de Rhodes tại Sài Gòn đã bị đốt bỏ theo chánh sách tiêu diệt 'văn hóa tư sản'.
Đánh tư sản
Có đến ba chiến dịch “Cải tạo công thương nghiệp tư nhân”, thường gọi là “Đánh tư sản” ở miền Nam. Các đợt Đánh tư sản được đánh mã số X1, X2 và X3.
Đợt X1 khởi động sáng 9/9/1975, diễn ra tại 17 tỉnh thành miền Nam và Sài Gòn. Mục tiêu chánh là nhà ở đô thị, tịch thu tài sản và buộc cư dân phải di dời đến các vùng Kinh tế Mới.
Đợt X2 bắt đầu từ tháng 3/1978, kéo dài đến sau Đổi Mới (khoảng 1990). Đợt này tập trung vào tư thương, tiểu tư sản và các cơ sở sản xuất nhỏ – vốn là nền tảng kinh tế tự do được chính quyền VNCH hỗ trợ.
Song song với X2, đợt X3 diễn ra mạnh mẽ tại Sài Gòn, do Đỗ Mười trực tiếp chỉ huy. Mọi cửa hàng kinh doanh, từ lớn đến nhỏ, đều bị UBND TP.HCM ra lệnh đóng cửa. Các cơ sở buôn bán, nhà hàng, kho bãi, dịch vụ bị niêm phong. Tổ công tác bất ngờ ập đến, kiểm soát tài sản, khống chế gia đình, không cho ra vào. Mỗi tổ niêm phong gồm ít nhất ba người từ các cơ quan khác nhau, không quen biết nhau, bao gồm thanh niên xung phong, công nhân, sinh viên và thanh niên địa phương.
Hậu quả là ngành công nghiệp nhẹ, sản xuất hàng tiêu dùng và gia dụng bị phá hủy hoàn toàn. Các nhà máy nhỏ sản xuất nhu yếu phẩm như đường, bột giặt, giấy cũng ngừng hoạt động do chủ sở hữu bị quốc hữu hóa.
Nhà báo Huy Đức viết: "Không chỉ bị 'tước đoạt tài sản', các nhà tư sản còn bị buộc phải rời thành phố, cho dù, cũng như nhiều chính sách làm xáo trộn xã hội lúc bấy giờ, chủ trương đưa các nhà tư sản đi kinh tế mới cũng không được công bố một cách công khai, minh bạch. Ngày 10-4-1978, trên báo Sài Gòn Giải Phóng xuất hiện một bài báo dưới dạng 'hỏi-đáp', kiểu như một tài liệu được soạn sẵn rồi phát cho các cơ quan báo chí. Tính cưỡng bức của chính sách mà tài liệu này thể hiện là rất mạnh mẽ."
"Ông Võ Văn Kiệt thừa nhận: 'Lúc đầu, tôi cũng cứ tưởng cải tạo tư sản sẽ khác với cải cách ruộng đất, một sai lầm mà những người ở miền Nam chúng tôi nhắc nhau phải tránh. Nhưng, tiến hành rồi mới thấy, cách cải tạo tư sản thương nghiệp mà anh Đỗ Mười làm, cũng không khác gì đánh tư sản mại bản nhưng tràn lan hơn. Anh Đỗ Mười làm cải tạo cũng thành thật lắm. Giữa thập niên 1980, khi tôi ra Hà Nội vẫn thấy anh Đỗ Mười kêu những người buôn bán là bọn con buôn'. "
Kinh tế mới
Ngày nay, ít ai nhớ đến danh từ 'Kinh tế mới', nhưng thời đó (1975) là một nỗi ám ảnh lớn của cư dân Sài Gòn. Chủ trương là di dời 5 nhóm dân sau đây ra vùng kinh tế mới (theo lệnh ngày 19/5/1976):
• Người thất nghiệp
• Người cư ngụ bất hợp pháp
• Người cư ngụ trong những khu vực dành riêng cho công chức và quân nhân VNCH
• Tiểu thương gia, tiểu địa chủ, đại thương gia
• Người gốc Hoa, dân theo đạo Công giáo.
Có lẽ ý tưởng chánh là giảm số người thuộc VNCH tập trung ở những đô thị. Trong thời gian 1975-80, đã có 832.000 người từ Sài Gòn bị di dời về vùng nông thôn. Phương pháp di dời bao gồm cưỡng bức, thu hồi hộ khẩu, rút thẻ mua gạo và các nhu yếu phẩm, và cấm trẻ em nhập học khiến đối tượng phải di chuyển ra vùng nông thôn.
Tù cải tạo
Tù cải tạo là một vấn đề nhức nhối cho đến ngày nay. Sau 1975, nhiều người từng phục vụ trong chế độ VNCH tình nguyện đi học tập vì nghĩ rằng chỉ vài tuần là xong, nhưng không ngờ có nhiều người phải đi cả chục năm trời. Có nhiều người qua đời trong các trại tù cải tạo.
Chánh quyền mới không cho biết con số tù nhân cải tạo là bao nhiêu. Nhưng Encyclopedia of the Vietnam War, sau năm 1975, số sĩ quan, công chức và cán bộ VNCH bị bỏ tù khoảng hơn 1,000,000 người trên tổng dân số NVN lúc đó khoảng 20 triệu người. Tất cả bị giam tại trên 150 trại giam; theo đó khoảng 500,000 được thả về trong 3 tháng đầu; 200,000 bị giam từ 2 đến 4 năm; 250,000 bị giam ít nhất 5 năm, và năm 1983 (tức sau 8 năm) còn khoảng 60,000 người bị giữ lại.
Theo một bài báo: "Trong số trên 1,000,000 người bị tù sau năm 1975, theo những cuộc nghiên cứu ở Hoa Kỳ và Âu Châu, có khoảng 165,000 nạn nhân đã từ trần trong các trại tù cải tạo”.
'Thuyền nhân'
Sau 1975, nhiều người (kể cả giới trí thức) không thấy tương lai trên quê hương, nên họ tìm đường vượt biên. Nhiều người tù cải tạo sau khi được trả tự do họ đều tìm đường vượt biên.
Chế độ mới áp dụng 'chủ nghĩa lý lịch', nên ngay cả con em của họ cũng không có cơ hội học đại học và đóng góp. Chẳng hạn như trong qui chế chọn sinh viên đại học, họ chia học sinh thành 14 nhóm theo lí lịch của thân nhân. Nhóm 1 và 2 là con em của 'gia đình cách mạng' và được ưu tiên cho học dù năng lực học tập của họ rất kém. Ngược lại, những học sinh trong nhóm 13 và 14 sẽ không được đi học đại học vì được xem là con em của 'những sĩ quan cao cấp, hay là sĩ quan công giáo'.
Những người không thấy tương lai đành phải ra đi: vượt biển.
Rất khó biết chính xác có bao nhiêu người Việt đã vượt biên. Nhưnh theo Cao Uỷ Tị Nạn Liên Hiệp Quốc, trong thời gian 1975-1995, có chừng 800,000 người Việt vượt biên bằng đường biển và chừng 100,000 bằng đường bộ. Đa số là xảy ra trong thời gian 1975-1985 vì đó là 'cao trào' của làn sóng vượt biển.
Theo một nghiên cứu trên những thuyền nhân tới Thái Lan thì đa số (trên 50%) thuyền tới bờ bị hải tặc Thái Lan tấn công. Vẫn theo Cao Uỷ Tị Nạn Liên Hiệp Quốc, có ít nhứt 10% người vượt biển bỏ mạng ngoài khơi, 'vĩnh viễn không bao giờ tới miền đất hứa'. Dựa vào đó, chúng ta có thể ước tính rằng có ít nhứt 100,000 người Việt đã nằm trong lòng Biển Đông.
************************************
Sau năm 1975, miền Nam Việt Nam trải qua những biến đổi sâu sắc và đau thương dưới các chánh sách mới. Chế độ tem phiếu đẩy người dân vào cảnh thiếu đói, đặc biệt tại các đô thị, nơi gạo trở thành hàng hiếm ngay cả ở vùng lúa gạo như miền Tây.
Chiến dịch đốt sách phá hủy di sản văn hóa miền Nam, với hàng ngàn (?) tấn sách bị nghiền nát, xóa bỏ dấu ấn của một nền văn hóa tự do. Các đợt “Đánh tư sản” (X1, X2, X3) triệt tiêu nền kinh tế tư nhân, tịch thu tài sản, buộc hàng ngàn người rời bỏ thành phố đến vùng Kinh tế Mới trong điều kiện khắc nghiệt.
Chánh sách di dời dân, tù cải tạo, và chủ nghĩa lý lịch gây ra sự phân biệt đối xử nặng nề, đẩy hơn một triệu người vào các trại giam, trong đó hàng chục ngàn người thiệt mạng. Hậu quả là làn sóng vượt biên ồ ạt, với khoảng 1 triệu thuyền nhân, nhưng ít nhứt 100.000 người đã bỏ mạng trên biển.
Những tổn thất về vật chất này để lại một vết thương tinh thần và xã hội, khiến hàng triệu người mất đi cơ hội xây dựng tương lai trên chính quê hương mình.
Cũng may vì từ giữa thập niên 1980, Việt Nam bắt đầu quá trình Đổi Mới (thật ra là quay về cách làm đúng, chứ chẳng 'mới'), đánh dấu bước ngoặc quan trọng trong việc chuyển đổi từ kinh tế kế hoạch hóa sang kinh tế thị trường. Chánh sách này đã mở ra cơ hội phục hồi kinh tế và cải thiện đời sống người dân.
Các hạn chế từ chế độ tem phiếu dần được gỡ bỏ, người dân được tự do kinh doanh, sản xuất nông nghiệp và công nghiệp nhẹ khởi sắc trở lại. Nông dân được giao quyền sử dụng đất, sản lượng lương thực tăng, đưa Việt Nam từ chỗ thiếu đói trở thành một trong những nước xuất khẩu gạo hàng đầu thế giới.
Nhìn vào quá trình phát triển sau 'Đổi Mới' ai cũng nghĩ rằng Việt Nam đã bỏ lỡ một cơ hội phát triển hơn ngày nay. Đáng lí ra Việt Nam ta đã khá hơn nhiều.
Việc tập trung vào tăng trưởng kinh tế ngắn hạn thay vì đầu tư dài hạn vào giáo dục, công nghệ, và cơ sở hạ tầng chất lượng cao khiến Việt Nam chưa thể sánh ngang với các '“con rồng' châu Á như Nam Hàn hay Singapore.
Ngoài ra, sự lệ thuộc vào Tàu và xuất khẩu thô và gia công, đã hạn chế khả năng cạnh tranh toàn cầu. Dù vậy, với dân số trẻ và hội nhập ngày càng sâu rộng, Việt Nam vẫn còn cơ hội vươn lên nếu tập trung vào đổi mới sáng tạo, giáo dục, và quản trị hiệu quả trong tương lai.
Nguyễn Tuấn
* ↓ Nguồn gốc tin tức trên ↓
* CHUYỆN KỂ VỀ VƯỢT BIÊN NHIỀU ĐAU KHỔ ĐỂ TÌM TỰ DO TẠI VIETNAMESE MUSEUM:-(👇
03 May 2025
+ Videos tin tức mới & Khoa Hoc Gia Dương Nguyệt Ánh Quyết Không Bao Giờ Hoà Giải Hoà Hợp Với Việt Cộng.
* ↓ Link Ký Thỉnh Nguyện Thư ↓
Khoa Học Gia, Dương Nguyệt Ánh quyết tâm giải oan cho chiến sĩ VNCH, giáo dục giới trẻ, không thể hòa giải với nhà cầm quyền VNCS
Đã 50 năm qua kể từ ngày miền Nam rơi vào tay cộng sản (CS). 50 năm là một thời gian đủ dài để cho những người Việt tha hương xây dựng lại mái nhà và một đời sống sung túc mới bên ngoài quê hương. Nhưng 50 năm vẫn chưa đủ dài và có lẽ sẽ không bao giờ đủ dài để chúng ta quên đi cái tang chung và quên được Việt Nam (VN), hay nói rõ hơn là quên được Việt Nam Cộng Hòa (VNCH).
Những ngày tháng đầu đặt chân đến Hoa Kỳ (HK) tị nạn, tôi vô cùng ngỡ ngàng khi thấy truyền thông, báo chí, sách vở, phim ảnh và học đường HK mô tả chiến tranh VN khác hẳn với những gì chính tôi và gia đình tôi đã sống qua. Vì thiên tả và phản chiến, họ đã thiếu lương thiện hoặc mù quáng đến nỗi bóp méo sự thật và nhục mạ không chỉ quân đội VNCH mà cả binh sĩ HK của họ.
Vì thế quần chúng HK nói riêng và thế giới nói chung có một hiểu biết rất sai lệch về chính nghĩa của miền Nam. Bao nhiêu năm sau khi miền Nam sụp đổ, tôi vẫn mang trong lòng một cái hận. Cái hận nước mất nhà tan chưa đủ, tôi còn mang thêm nỗi uất hận và cảm giác đau đớn bất lực khi thấy chiến sĩ của mình tiếp tục bị hàm oan và sỉ nhục. Những người quân nhân HK thì bị vơ đũa cả nắm là những tên sát nhân phụ nữ và trẻ thơ. Những chiến sĩ VNCH vào sinh ra tử trong đó có anh ruột tôi thì bị vu khống là hèn nhát. Cả quân đội VNCH bị bỏ rơi và cuối cùng bị ra lệnh đầu hàng vào 30 tháng 4 mà tại sao bị đổ tội làm cho mất nước.
Hôm nay, tôi vẫn còn mang trong lòng sự tức giận này nhưng tôi không còn cảm thấy bất lực nữa. Trong khi tôi từ một người tị nạn buồn tủi năm xưa trở thành một công dân HK với đầy tự tin hôm nay thì tôi cũng đã học hỏi và nhận ra được nhiều điều. Tôi nhận ra rằng chính chúng ta phải tự giúp mình, chính chúng ta phải lên tiếng phản bác lại bọn truyền thông thiên tả, phải tự giải oan và không trông chờ vào ai khác.
Ở những quốc gia tự do dân chủ như HK, ai cũng có thể lên tiếng tranh đấu hay bênh vực cho bất cứ một điều gì. Ngày nay với những sách báo điện tử và những trang mạng xã hội, truyền thông dòng chính không còn giữ độc quyền hướng dẫn dư luận nữa, và tiếng nói của thiểu số như chúng ta sẽ không sợ bị át giọng, miễn là ta có đủ quyết tâm.
Là thế hệ tị nạn đầu tiên chúng ta đã tạm lo xong chuyện cơm áo, đã thành công rực rỡ trên quê hương mới ở nhiều phương diện, và đã dựng lên những cộng đồng Việt trù phú ở khắp nơi. Bây giờ là lúc chúng ta đủ phương tiện và kinh nghiệm để dồn nỗ lực vào việc trả lại sự thật cho lịch sử.
Chính chúng ta phải phục hồi danh dự cho chiến sĩ của mình và chính chúng ta phải giáo dục quần chúng về chiến tranh VN và chính nghĩa của quân dân VNCH, nhất là cho thế hệ con cháu của chúng ta. Với tình trạng thiên tả ở các học đường HK, từ sách vở tài liệu giảng huấn cho đến khuynh hướng chính trị của giáo sư, chính con cháu chúng ta cũng sẽ hiểu biết sai lệch nếu cha mẹ không giải thích.
Hậu quả là con cháu chúng ta không những sẽ không biết hãnh diện mà có thể còn mặc cảm về nguồn gốc VNCH của họ, cho rằng cha ông chỉ là những kẻ thua trận cay cú nên mới chống chính quyền VNCS. Từ đó họ không tha thiết đến việc tìm biết thêm về cái gốc của mình, không tham gia vào sinh hoạt của cộng đồng người Việt quốc gia (CDNVQG), và thờ ơ với những vấn đề liên quan đến sự trường tồn của dân tộc VN. Còn nếu họ có lòng và vẫn quan tâm đến VN thì chính vì họ xa lạ với CDNVQG, họ sẽ dễ nhiễm tuyên truyền và dễ ngả về phía CSVN.
Một trong những chiêu bài bọn tay sai CS ở hải ngoại dùng nhiều nhất là kêu gọi hòa hợp hòa giải và hợp tác với chính quyền VN. Đã gọi là hợp tác tức là phải có một mục đích chung. Mục đích của chúng ta là bảo vệ lãnh thổ, bảo vệ chủ quyền quốc gia của VN, là tạo tự do, cơm no áo ấm cho người dân VN.
Mục đích của họ chỉ là củng cố quyền lực cho đảng và giai cấp tư bản đỏ, bằng mọi giá và bất chấp mọi hậu quả cho dân tộc và tổ quốc VN, như đã được chứng minh bằng những hành động dâng đất dâng biển cho Trung Cộng và ăn cắp tài nguyên quốc gia làm của riêng. Mục đích của họ và của ta không những không thể dung hòa mà còn đối kỵ nhau nên người Việt quốc gia hải ngoại không thể hợp tác hay hòa hợp hòa giải gì với nhà cầm quyền VN được.
30 tháng 4 không thể chỉ là một ngày tang buồn với những hồi tưởng và nước mắt. Khi nhớ đến những cái chết bi hùng của chiến sĩ VNCH và những tai ương đã đổ lên đầu quân dân miền Nam, chúng ta cần có những bước tới tích cực hơn nữa, mạnh mẽ hơn nữa, để trả lại sự thật cho lịch sử, để giáo dục tuổi trẻ VN và dư luận thế giới về chiến tranh VN và phục hồi danh dự cho quân dân VNCH.
Tôi xin nhân dịp này bầy tỏ lòng biết ơn sâu xa đối với những ai đã từng tranh đấu và hy sinh cho chính nghĩa tự do của miền Nam VN, những chiến sĩ đã bỏ mình, và những thưong phế binh đang sống tủi cực ở quê nhà. Nhờ chiến sĩ mà hôm nay tôi được sống tự do và bình an, được có cơ hội để theo đuổi những hoài bão riêng và mưu tìm hạnh phúc cho riêng mình. Tôi mãi mãi không quên ơn chiến sĩ.
Dương Nguyệt Ánh
* ↓ Nguồn gốc tin tức trên ↓
* CHUYỆN KỂ VỀ VƯỢT BIÊN NHIỀU ĐAU KHỔ ĐỂ TÌM TỰ DO TẠI VIETNAMESE MUSEUM:-(👇
April 2025
Subscribe to:
Posts (Atom)